Giọng ca cải lương “thế hệ vàng” Thanh Nguyệt và chồng – nghệ sĩ Quốc Nhĩ – hiếm khi cãi vã trong 45 năm gắn bó.
Sáng 6/9, trong ngôi nhà nhỏ ở hẻm quận Gò Vấp, nghệ sĩ Quốc Nhĩ lúi húi nấu cháo điểm tâm cho vợ. Gần đây, chứng giãn tĩnh mạch tái phát khiến Thanh Nguyệt đi lại khó khăn, thỉnh thoảng phải nhờ chồng dìu. Nhìn ông trong gian bếp, nghệ sĩ nói lòng bà dấy lên hạnh phúc. Hai tuần trước, bà là một trong 35 tên tuổi tại TP HCM được đề xuất Nghệ sĩ Nhân dân. Thanh Nguyệt cho biết: “Hơn ai hết, chồng là hậu phương của tôi suốt 45 năm qua”.
Nghệ sĩ Ưu tú Thanh Nguyệt, Quốc Nhĩ dự buổi ra mắt hồi ký Lệ Thủy tháng 11/2019. Ảnh: Trần Tiến
Thanh Nguyệt miêu tả cuộc sống thời dịch của vợ chồng bà đơn sơ mà bình yên. Cả hai chỉ ở trong nhà, “có gì ăn nấy”. Thanh Nguyệt, Quốc Nhĩ không có con chung, còn con riêng của bà sống cách đó vài km, hạn chế đi lại nên đôi nghệ sĩ tự lo liệu mọi sinh hoạt. Quen đạm bạc, bữa ăn mùa dịch của vợ chồng bà có khi chỉ cần trứng luộc, canh rau muống. Mỗi sáng, bà dậy sớm, pha cho ông ly cà phê, cả hai vừa nhâm nhi vừa xem thời sự hoặc coi lại các trích đoạn cải lương trên Youtube. Bà nói: “Đời sống vợ chồng già vậy thôi, quanh đi quẩn lại cũng hết ngày”.
Ở tuổi 74, Thanh Nguyệt mắc nhiều bệnh nền như cao huyết áp, tim mạch… Năm 2016, bà được cấp cứu sau một lần tăng huyết áp, mất một tuần điều trị. Ra viện, mắt phải bà không còn nhìn rõ vì chứng xuất huyết võng mạc. Đến nay, thỉnh thoảng bà phải tiêm thuốc vào mắt để tan máu bầm, tránh suy giảm thị lực. Một năm qua, bác sĩ khuyến cáo hạn chế làm việc quá sức, cộng thêm dịch, bà ngưng đi diễn. Không có thu nhập, cuộc sống đôi vợ chồng bấp bênh vì mỗi tháng bà phải tốn vài triệu đồng tiền thuốc. Dù vậy, bà cho biết ít khi nhờ vả đồng nghiệp vì hiểu ngoài kia còn nhiều nghệ sĩ khốn khó hơn.
Thanh Nguyệt tự nhận vẫn may mắn khi có chồng sát cánh. Từ khi sức khỏe vợ giảm sút, Quốc Nhĩ nghỉ ca hát, lui về hậu trường để hỗ trợ bà. Mỗi lần bà được mời đi quay, không quản nắng mưa, ông thường đèo vợ trên chiếc Dream cũ vì bà không biết chạy xe máy. Có hôm, ông chờ bà ở trường quay đến 4-5h sáng để hoàn thành vai diễn. Thương chồng chịu sương gió, chỉ khi có kịch bản phù hợp, bà mới nhận lời. Thanh Nguyệt nói: “Chưa bao giờ thấy ông ấy than thở một lời. Mấy chục năm chung sống, chúng tôi chưa từng cãi vã vì hiểu nhau đến từng chân tơ kẽ tóc”.
Vợ chồng Thanh Nguyệt san sẻ cho nhau từng bữa cơm trong hậu trường sân khấu. Ảnh: Thanh Hiệp
Trước khi gặp Quốc Nhĩ, Thanh Nguyệt từng nghĩ hạnh phúc với bà là điều nằm ngoài tầm với. Mẹ qua đời khi bà độ tuổi đôi mươi, cha cưới vợ khác, một mình Thanh Nguyệt đi hát, kiếm tiền nuôi các em khôn lớn. Khi được soạn giả Mộc Linh – tên tuổi nổi tiếng của làng cải lương thời vàng son – ngỏ lời, bà gật đầu vì muốn cuộc sống bớt quạnh quẽ. Con đầu lòng chào đời, tình cảm vợ chồng phai nhạt, hôn nhân Thanh Nguyệt đứt gánh giữa đường sau vài năm bà gắng gượng chịu đựng. Nghệ sĩ nuốt nước mắt ôm con gửi chị ruột nhờ chăm sóc, còn bà tiếp tục lang bạt theo gánh hát, sống đời “gạo chợ nước sông”.
Năm 1976, bà và Quốc Nhĩ quen nhau sau khi đóng chung vở Tiếng trống Mê Linh. Lần đầu gặp, ông đã đem lòng cảm mến cô đào có gương mặt “đẹp tựa trăng rằm” – như lời ông tả, tính nhân hậu, hay quan tâm đồng nghiệp. Về phần Thanh Nguyệt, dù mến ông, lòng bà ngổn ngang muôn câu hỏi. Bà sợ hạnh phúc một lần nữa khép cửa, lo ông không thương yêu con trai riêng của bà.
Cố nghệ sĩ Thanh Nga – đàn chị dẫn dắt bà ở đoàn Thanh Minh – ra sức làm cầu nối cho cả hai nên duyên. Một đám cưới nhỏ diễn ra sau đó. Lấy nhau về, ông một tay chăm sóc con trai Thanh Nguyệt những ngày bà bận lưu diễn. Nhìn cách ông cưng nựng con riêng của vợ như con ruột, cũng như săn sóc người chị bị tâm thần của Thanh Nguyệt, bà biết không chọn nhầm người.
Nghệ sĩ Thanh Nguyệt từng là cô đào sáng giá thập niên 1960. Ảnh: Nguyễn Phương
Thanh Nguyệt vẫn nhớ những ngày đầu tiên bước chân vào nghiệp hát. Năm 16 tuổi, bà bỏ nhà theo đoàn, hành trang chỉ là vài bộ đồ mẹ may. Sau khi thử giọng, bà được “bầu” Bảy Cao nhận vào đoàn hát Hoa Sen. Một lần, diễn viên Ngọc Hạnh bất ngờ xin nghỉ, ông bầu cấp tốc tập cho Thanh Nguyệt thế vai trong tuồng Bến hẹn năm xưa. Nhờ “học lỏm” tuồng trước, bà nhanh chóng nhập vai dù lần đầu đảm nhận đào chánh, được giao thêm các tuồng Sanh dưỡng đạo đồng, Người mẹ Việt Nam.
Bước ngoặt của Thanh Nguyệt là khi bà rời đoàn Hoa Sen, gia nhập đại ban Kim Chưởng. Dù đoàn đã có nhiều ngôi sao như Phương Quang, Diệp Lang, Phượng Liên…, bà vẫn tỏa sáng với vai Tiểu Long Nữ trong tuồng Song long thần chưởng. Năm 1965, bà đoạt giải Thanh Tâm với vai Gia Cát Anh, tuồng Thiên hạ đệ nhất kiếm. Soạn giả Nguyễn Phương từng nhận xét: “Chỉ sau ba năm đi hát qua hai đoàn, Thanh Nguyệt đã đoạt được huy chương vàng Thanh Tâm – giải thưởng sân khấu các nam nữ nghệ sĩ cải lương đều mơ ước. Buổi phát giải năm 1965, Thanh Nguyệt hát trên sân khấu Dạ Lý Hương vở Bụi mờ ải nhạn, được khán giả và ký giả kịch trường nhiệt liệt khen ngợi”.
Kinh qua nhiều dạng vai, Thanh Nguyệt vẫn để lại ấn tượng đậm nét với những nhân vật hiền lành, thương chồng con. Một thời, bà đóng đinh bởi các vai như bà mẹ mù trong vở Áo cưới trước cổng chùa, bà Hai Hương trong Đời cô Lựu, Thị Bình trong Lôi Vũ… Thanh Nguyệt nói, mỗi lần đóng vai mẹ, bà thường lấy cảm hứng từ người mẹ quá cố. Một trong những nỗi day dứt lớn của bà là không kịp nhìn mặt mẹ lần cuối.
Năm 1963, khi diễn vở Người mẹ Việt Nam ở Khánh Hòa, bà nhận được tin mẹ qua đời ở quê nhà Bạc Liêu. Đường xá cách trở, mất chín ngày, bà về đến nhà thì mẹ đã được chôn cất. Bà cho biết: “Nỗi đau ấy theo tôi mãi về sau. Để mỗi khi lên sân khấu, tôi lại cảm giác mẹ đang dõi nhìn mình dưới hàng ghế khán giả, khóc cười với từng vai diễn…”.
NSƯT Thanh Nguyệt – Cuộc đời vinh quang và nước mắt của cô đào nổi tiếng một thời
Từng là cô đào nổi tiếng một thời của làng cải lương Việt Nam, giờ đây tuổi xế chiều của NSƯT Thanh Nguyệt là những ngày tháng chống chọi với bệnh tật.

Gặp duyên may theo nghề hát
NSƯT Thanh Nguyệt có chung xuất phát điểm giống như các nghệ sĩ tài danh: NSƯT Lệ Thủy, NS Hồng Nga, NSƯT Ngọc Giàu, Kim Ngọc…, chị được cha mẹ gởi vào Thánh thất Cao Đài Bạc Liêu để học đạo và học chữ. Gặp duyên may có người biết đờn, phát hiện giọng ca của chị trầm ấm, thanh thoát nên tình nguyện dạy cho học ca theo đúng nhịp đờn, đúng bài bản. Vào thời điểm đó có nhiều đoàn cải lương đang cần nhiều diễn viên trẻ nên chị có được dịp may để tiến thân.
Soạn giả Kiên Giang kể: “Nhờ có giọng tốt, Thanh Nguyệt được nhận vô Ban Đồng Nhi ca trong các buổi cúng lễ, khi cô được 8 tuổi đã bắt chước ca bài cô Lắng tiếng chuông ngân của nữ nghệ sĩ Thanh Nga ca trong đĩa. Giọng ca của Thanh Nguyệt đã khiến cho ông nhạc sĩ đàn kìm Năm Nhu trong Thánh thất chú ý nên ông tìm đến nhà Thanh Nguyệt để thu nhận Thanh Nguyệt làm đệ tử. Ông dạy cho Thanh Nguyệt ca đủ ba Nam, sáu Bắc và vọng cổ. Tôi còn nhớ Thanh Nguyệt có người cha nuôi giấu cán bộ cách mạng, bị bắt giam tù mấy năm. Thanh Nguyệt phải nghỉ học để phụ má nuôi đàn em thơ dại. Khi cha mãn hạn tù trở về, ông mất sức luôn, không làm gì được. Một hôm, ông gặp lại người bạn cũ (ông Mười Ô) trong một gánh hát, dẫn ông này về nhà chơi. Ông trông thấy cô bé Thanh Nguyệt, liền khen: “Con nhỏ mặt mũi sáng láng quá! Nó có biết ca không?”. Cha Thanh Nguyệt nói: “Tôi thấy nó đọc kinh hay lắm, chứ ca thì chưa nghe!”. Gia đình đạo Cao Đài, kinh đọc nghe vần điệu ngân nga. Sau đó Thanh Nguyệt trở thành đệ tử thầy Năm Nhu và được người bạn của cha giới thiệu ca trên Đài phát thanh tỉnh Bạc Liêu, mỗi tuần ca hát một lần, thính giả rất thích thú”.

NSƯT Thanh Nguyệt và Hùng Minh trong vở Giấc mộng đêm xuân
NS Thanh Nguyệt tên thật là Nguyễn Thị Thanh Nguyệt, sanh ngày 17 tháng 9 năm 1947, quê ở xã Vĩnh Lợi, Bạc Liêu. Cha là ông Nguyễn Văn Xinh, thợ xây cất nhà, mẹ là bà Vưu Thị Lành, buôn bán. Năm 1962, NS Thanh Nguyệt được giới thiệu vào đoàn hát Hoa Sen. Ông Bầu Bảy Cao sau khi nghe thử giọng ca, ông nhận Thanh Nguyệt vào đoàn hát và giao Thanh Nguyệt cho nữ nghệ sĩ đàn tranh Tuyết Mai rèn luyện thêm theo lối ca hát trên sân khấu. Đêm đêm Thanh Nguyệt ngồi bên cánh gà, theo dõi và học các lối diễn của các nghệ sĩ đàn anh đàn chị.
Đoàn hát Hoa Sen của ông bầu Bảy Cao là một đoàn hát đại ban, lúc đó Hoa Sen đã không còn hát các tuồng chiến tranh mà chuyển qua diễn các tuồng xã hội cận đại như: Bến hẹn năm xưa, Sanh Dưỡng đạo đồng, Người thám tử què, Người Mẹ Việt Nam…. Thành phần diễn viên thời đó có: NS Bảy Cao, Việt Kiều, Minh Luông, Huỳnh Minh, Tuấn KIệt, Vân Nam, Điền Sơn, Đắc Thành, hề Văn Hường, Phượng Hoàng,… về nữ diễn viên có Kim Luông, Ngọc Hạnh, Ánh Hồng, Diệu Hiền, Kim Loan, Thùy Lan…. Đào chánh đoàn Hoa Sen, nữ diễn viên Ngọc Hạnh bất ngờ xin nghĩ, ông Bầu Bảy Cao cấp tốc tập cho Thanh Nguyệt thế vai của Ngọc Hạnh trong tuồng Bến hẹn năm xưa. Lần đầu tiên bước ra sân khấu, Thanh Nguyệt lại phải hát thế một vai đào chánh, nhờ từ lâu Thanh Nguyệt theo dõi và học tuồng bên cánh gà nên Thanh Nguyệt thành công trong vai diễn. Ông Bầu Bảy Cao giao cho Thanh Nguyệt hát chánh thêm trong các tuồng Sanh dưỡng đạo đồng, Người mẹ Việt Nam.
NSƯT Thanh Nguyệt và ca sĩ Đông Quân, NS hài Bình Mập, NSƯT Hùng Minh tham gia trong vở Lan và Điệp
NS Thanh Nguyệt nhớ mãi kỷ niệm của chuỗi ngày đi hát, đó là cuối năm 1962, đoàn Hoa Sen hát ở Vạn Giả, chị được tin mẹ mất. Lúc đó đoàn Hoa Sen không ký hợp đồng với chị, vì dù chị hát vai chánh nhưng ông Bầu xem như đang học hát, nên phát lương thấp, chị không có tiền về quê. Các nghệ sĩ trong đoàn chung đậu lại giúp cho chị số tiền đủ mua vé xe và cô bạn thân tên Phi tháp tùng đi với chị về quê thọ tang mẹ. Nhưng cũng mất 9 ngày chị mới về đến quê nhà vì đường xá thời đó rất khó di chuyển.
Mẹ mất, các em của Thanh Nguyệt sống bơ vơ vì cha của Thanh Nguyệt tái giá để có người chăm sóc hai đứa em sinh đôi mới 6 tuổi, còn một đứa 8 tuổi và đứa nữa 10 tuổi. NS Thanh Nguyệt quyết đi hát kiếm tiền nuôi các em.

Cuối năm 1963, các em của Thanh Nguyệt ngã bịnh, chị mượn tiền của ông Bầu Bảy Cao để lo thang thuốc cho các em nhưng ông Bầu bảo không có tiền. Lúc đó đoàn Hoa Sen hát gần đoàn Kim Chưởng, một đoàn nổi danh: “ Anh hùng lưu diễn miền Trung”. Bà Bầu Kim Chưởng cho người đến xem hát, phát hiện giọng ca và sắc vóc của Thanh Nguyệt, biết có thể đào tạo thành nghệ sĩ tên tuổi nên bà Bầu Kim Chưởng mời Thanh Nguyệt đến nói chuyện.
Thanh Nguyệt thật thà kể lại việc hát không hợp đồng và lương ở đoàn Hoa Sen rất thấp. Bà Kim Chưởng hứa tăng lương gắp đôi và đưa cho Thanh Nguyệt 20.000 đồng, bảo ký vào một tờ giấy, cam kết nếu Thanh Nguyệt hát không đúng hai năm cho đoàn Kim Chưởng thì phải bồi hoàn cho đoàn 200.000 đồng. Đó là một cách ràng buộc người nghệ sĩ phải giữ đúng như đã cam kết. Vì các em đau đang cần tiền và cũng vì muốn theo đoàn Kim Chưởng học hát nên NS Thanh Nguyệt ký nhận 20.000 đồng.

Bước ngoặt mới trong đời nghệ sĩ
NS Thanh Nguyệt xin nghỉ hát đoàn Hoa Sen, ông Bầu biết việc NS Thanh Nguyệt ký hợp đồng với Kim Chưởng, ông bảo Thanh Nguyệt ở lại hát cho Hoa Sen, ông sẽ ra 200.000 đồng để thối lại đoàn Kim Chưởng. Thấy cách đối xử của ông Bầu Cao không tình cảm, NS Thanh Nguyệt đã cương quyết rời đi để gia nhập đoàn Kim Chưởng.
Đây chính là bước ngoặt mới trong sự nghiệp nghệ thuật của NS Thanh Nguyệt. Khi chị về hát trên sân khấu Kim Chưởng từ năm 1964, lúc đó đoàn có các diễn viên: Phương Quang, Thanh Nhàn, Trường Xuân, Dũng Thanh Lâm, Diệp Lang, Phi Hùng, Hề Minh, hề Vui…Về dàn nữ diễn viên có: NS Phượng Liên, Trương Ánh Loan, Kim Liên, Thanh Nguyệt…
Chị đã hát qua những vở: Người gọi đò bên sông (vai Nhật Thường Dung), Mười đêm hương lửa (vai Cát Dung), Qủy Bảo (vai Thất Hồn Nhân)… Và NS Thanh Nguyệt nổi danh qua vai Tiểu Long Nữ trong tuồng Song long thần chưởng, chị được giới thiệu tham gia giải Thanh Tâm năm 1964.

Đến vòng chung kết, NS Thanh Nguyệt đứng hàng thứ ba, sau nghệ sĩ Lệ Thủy và Thanh Sang. Năm 1964, giải thưởng Thanh Tâm chỉ phát hai giải Huy chương vàng nên Lệ Thủy và Thanh Sang được trao giải. NS Thanh Nguyệt rớt năm đó và phấn đấu cho năm kế tiếp. Chị nổi danh qua vai Gia Cát Anh, tuồng Thiên hạ đệ nhất kiếm và đúng như lời dự đoán của báo giới và công chúng năm 1965 chị đoạt huy chương vàng giải Thanh Tâm.
Soạn giả Nguyễn Phương nhận xét: “Chỉ sau ba năm đi hát qua hai đoàn Hoa Sen và Kim Chưởng, nữ nghệ sĩ Thanh Nguyệt đã vinh dự đoạt được huy chương vàng giải Thanh Tâm, một giải thưởng sân khấu mà các nam nữ nghệ sĩ cải lương đều mơ ước. Buổi phát giải Thanh Tâm 1965, Thanh Nguyệt hát trên sân khấu Dạ Lý Hương vở Bụi mờ ải nhạn, được khán giả và ký giả kịch trường nhiệt liệt khen ngợi. Năm 1966, hết hợp đồng với Kim Chưởng, Bầu Long Kim Chung mời Thanh Nguyệt về hát với 250.000 đồng, hát trong đoàn Kim Chung 1 với các nghệ sĩ Kim Chung, Bích Hợp, Kim Tuyến, Như Ngọc, Tấn Tài, Thanh Hải, Hoài Trúc Phương, Minh Đạt, Ngọc Toàn, Quang Hữu, hề Văn Hường và Ba Hội. NS Thanh Nguyệt đã hát ở đoàn Kim Chung 1 các tuồng: Đường Minh Hoàng – Dương Quí Phi, Lưới tình, Kiếm khách Cao Đại Sơn, Thoại Ba công chúa, Tóc gởi sân chùa…. Đến năm 1968, NS Thanh Nguyệt sang hát ở đoàn Kim Chung 5 qua các tuồng: Bão cát, 14 đêm tình, Thằng điên và nàng công chúa. Năm 1971, Thanh Nguyệt cộng tác với đoàn Thái Dương của bà Bầu Tiêu Thị Mai và năm 1972, được mời đi biểu diễn cải lương ở Hội Chợ nước Lào. Năm 1974, hát ở đoàn Tiếng Hát Dân Tộc của bầu Năm Cư các tuồng: Tuổi hồng cho em, Chuyện tình An Lộc Sơn, Mạnh Lệ Quân, Mùa thu lá bay…. Sau năm 1975, NS Thanh Nguyệt về hát cho các đoàn hát Trung Hiếu, Thanh Minh, Saigon 1, Trần Hữu Trang, đoàn 2-84 và thu nhiều vở vidéo cải lương: Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, Qua cầu đắng cay, Lan và Điệp, Nước biển mưa nguồn…”.

Nghệ sĩ Thanh Nguyệt được mời thu video cải lương rât nhiều, chị chuyên đóng các vai bà mẹ nông dân suốt đời chịu thương chịu khó hy sinh vì chồng vì con. Với phong cách diễn xuất chân thật, giọng ca trầm ấm, lấy nước mắt khán giả, nên NS Thanh Nguyệt được các đạo diễn tin cậy, mời hóa thân vào các số phận bà mẹ hiền, gặp nhiều bi kịch.
Thanh Nguyệt gá nghĩa với soạn giả Mộc Linh, một soạn giả nổi danh trong giới cải lương, có một con trai tên Thế Phi. Tuy nhiên cuộc hôn nhân này đã không kéo dài. Sau đó nhiều năm, NS Thanh Nguyệt tái giá với nghệ sĩ Quốc Nhĩ, đồng nghiệp trong đoàn hát Thanh Minh. Quốc Nhĩ rất thương Thế Phi, chăm sóc dạy dỗ như con ruột của mình. Thế Phi cũng yêu thương Quốc Nhĩ như cha ruột của mình.
Thế Phi có thời gian học hát trong đoàn Đồng Ấu Trần Hữu Trang, hợp cùng với Bảo Ngọc thành một cặp diễn viên đầy triển vọng. Thế Phi sáng tác nhiều kịch bản cải lương như: Khúc nhạc tương phùng, được thu vidéo và được khán giả và báo chí ngợi khen. Thế Phi đã nối nghiệp cha làm nghề soạn giả tuồng cải lương. Hiện nay hai vợ chồng Thanh Nguyệt – Quốc Nhĩ là một cặp vợ chồng hạnh phúc, đầm ấm. Hai anh chị thường có mặt trong các show diễn cải lương hoặc cùng đèo nhau đi hát chùa gây qủy từ thiện. Giới nghệ sĩ và khán giả quen biết rất ái mộ cuộc sống hạnh phúc và chuyên làm việc từ thiện của Thanh Nguyệt và Quốc Nhĩ. Mới đây, HTV đã thu hình vở Nữ tướng Nguyễn Thị Định, NS Thanh Nguyệt đã được mời đóng vai diễn này. Chị vẫn thường xuyên tham gia biểu diễn các vở tuồng về Phật giáo do Đoàn Thanh Nga tổ chức. Ngoài ra còn tham gia thu âm bài ca cổ, bài bản cải lương trên sóng Đài Tiếng nói Nhân dân TP HCM.
NS Thanh Sang kể: “Nghệ sĩ Quốc Nhĩ nhờ Tiếng trống Mê Linh se duyên với Thanh Nguyệt, rồi ông nhẫn nhịn nuôi đứa con riêng của vợ, thương như con ruột. Anh hiền lành, còn chị chung thủy, đảm đang. Vợ chồng già hủ hỉ với nhau trong căn nhà nhỏ ở Gò Vấp, con trai và cháu nội ở gần đó cứ chạy tới chạy lui thăm viếng. Những ngày chị đi quay phim thì anh ở nhà chăm sóc người chị vợ bị bệnh tâm thần nay đã lớn tuổi. Khi chị ở nhà, anh cũng lo trong lo ngoài để chị rảnh rang học thoại kịch bản phim. Hàng xóm của vợ chồng Quốc Nhĩ, Thanh Nguyệt chính là NS Hùng Minh. Nghệ sĩ chúng tôi khi về chiều lúc nào cũng nhớ đến thời vang son của sân khấu và bảo ban nhau hãy giữ lấy chữ nghề. Trong số những nghệ sĩ tâm huyết với cải lương phải kể đến Thanh Nguyệt và Quốc Nhĩ”.




Qua hai “lần đò” và bến đỗ hạnh phúc
